Năm 1992, trong dịp kỷ niệm lần thứ 102 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh thuộc Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, sau nhiều năm chuẩn bị và biên soạn, đã cho ra mắt bạn đọc tập đầu tiên của công trình nhiều tập Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử.
Từ lâu, nhân dân ta, bạn bè, đồng chí và kiều bào ta ở nước ngoài vẫn mong muốn có một bộ sách lớn, công bố đầy đủ những tư liệu chính xác, đã qua xác minh khoa học, về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng "vô cùng oanh liệt và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ" của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, giúp cho cán bộ và nhân dân ta có điều kiện nghiên cứu, tìm hiểu, học tập sâu sắc về tiểu sử, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người.
Các nhà nghiên cứu khoa học về kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hoá, giáo dục, lịch sử Đảng và phong trào công nhân, lịch sử các đoàn thể quần chúng và cách mạng nước ta mong muốn có một bộ sách sưu tập tương đối đầy đủ và hệ thống những tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập Đảng, Mặt trận dân tộc thống nhất, Nhà nước và Quân đội nhân dân, người mở đầu và đặt nền móng cho các khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một bộ sách như vậy có tác dụng tra cứu và tham khảo rất bổ ích đối với các nhà nghiên cứu khoa học xã hội ở trong và ngoài nước.
Các nhà văn nghệ, sáng tác tiểu thuyết, sân khấu, điện ảnh, hội hoạ... mong muốn khai thác từ biên niên tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh những sự kiện chân thực, sinh động, cụ thể trong cuộc đời của Người từ thời niên thiếu cho đến khi qua đời, để sáng tạo nên những công trình nghệ thuật tương xứng với tầm vóc vĩ đại của Người, góp phần vào sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, mãi mãi "Sống, chiến đấu, lao động, học tập, theo gương Bác Hồ vĩ đại".
Năm 1992, trong dịp kỷ niệm lần thứ 102 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh thuộc Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, sau nhiều năm chuẩn bị và biên soạn, đã cho ra mắt bạn đọc tập đầu tiên của công trình nhiều tập Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử.
Sau hơn 10 năm bộ sách ra mắt bạn đọc, chúng tôi đã nhận được nhiều ý kiến góp ý cũng như nhận được nhiều tư liệu quý liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến nay, theo yêu cầu của bạn đọc, chúng tôi phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản lần thứ hai bộ sách này.
Biên soạn công trình này, chúng tôi hy vọng giúp bạn đọc có điều kiện nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn công lao to lớn, sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, thấy rõ thiên tài trí tuệ và phẩm chất đạo đức trong sáng, cao đẹp của một vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại, đồng thời là một con người giản dị, khiêm tốn, gần gũi, thân thiết với tất cả mọi người.
Qua tấm gương cao đẹp, trọn vẹn về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức và phong cách của Bác Hồ kính yêu, công trình sẽ giúp bạn đọc rút ra được những bài học bổ ích về lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần quốc tế vô sản, đạo đức - phẩm chất của con người mới xã hội chủ nghĩa, niềm tự hào vô hạn về lãnh tụ vĩ đại, niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng do Bác Hồ sáng lập, mãi mãi đi theo con đường của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, thực hiện bằng được mong muốn cuối cùng của Người là: "Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
Xưa nay, tiểu sử vĩ nhân có thể được trình bày dưới nhiều thể loại: niên phổ, niên biểu, biên niên sự kiện, biên niên tiểu sử, tiểu sử khoa học, truyện danh nhân, v.v..
Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử là một công trình lịch sử được trình bày dưới hình thức biên niên. Nhưng khác với niên biểu hay biên niên sự kiện trong đó chỉ liệt kê tóm tắt năm tháng xảy ra các sự kiện chính, đánh dấu bước chuyển biến trong cuộc đời và tư tưởng của vĩ nhân, mà không lược thuật nội dung các sự kiện, còn biên niên tiểu sử là một cuốn sử với đầy đủ các yếu tố niên đại, nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh... được ghi chép lại theo trình tự thời gian diễn ra các sự việc, lời nói, bài viết, hành động, sinh hoạt, giao tiếp, v.v. của vĩ nhân đối với thời đại, đất nước, dân tộc, giai cấp, gia đình, họ hàng, bạn hữu, kẻ thù...; từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, trong đời sống chung và đời sống riêng, thể hiện lãnh tụ vừa như một vĩ nhân, vừa như một người bình thường.
Biên niên tiểu sử được kết cấu theo đơn vị thời gian: năm, tháng, ngày, có khi đến từng giờ. Với một phương pháp ghi chép có vẻ tản mạn, ngẫu nhiên, có biến cố gì ghi nấy, song toàn bộ nội dung của nó bao giờ cũng được nhận thức, phản ánh, diễn đạt theo quan điểm chính trị, tư tưởng, đạo đức của một giai cấp nhất định. Trong biên niên tiểu sử, người đọc được tiếp xúc với một khối lượng tư liệu phong phú, nhiều sự kiện cụ thể, tuy được thể hiện bằng văn lịch sử; nhưng lại sinh động, đáp ứng được yêu cầu của nhà nghiên cứu lẫn người đọc thông thường.
Quan niệm về tính chất và đặc điểm của thể loại biên niên tiểu sử như trên đã định hướng cho các soạn giả trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể về nội dung và phương pháp biên soạn biên niên tiểu sử của Bác Hồ.
Trước hết là việc lựa chọn sự kiện đưa vào biên niên. Nói chung, toàn bộ những sự kiện có ý nghĩa trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (với tư cách là chủ thể hành động) đã sưu tầm được, qua chọn lọc, xác minh, đều có thể đưa vào biên niên. Những sự kiện này bao quát các lĩnh vực:
- Trước tác: Bao gồm các tác phẩm lý luận chính trị, văn hoá, văn nghệ, thư từ - điện văn, bài báo, tài liệu dịch, bài phát biểu, lời kêu gọi... đã công bố ở trong và ngoài nước.
- Các văn kiện của Đảng và Nhà nước: Bao gồm các hiệp định, tạm ước, tuyên ngôn, tuyên bố, sắc lệnh, chỉ thị, nghị quyết hoặc các tài liệu tương tự do Bác Hồ trực tiếp thảo hay ký công bố trên danh nghĩa Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng...
- Hoạt động: Bao gồm các cuộc tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản, Hội nghị các Đảng anh em, các Đại hội Đảng, Quốc hội, Hội đồng Chính phủ, Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ, Công đoàn; các cuộc họp với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, với các tổ chức kinh tế - xã hội, tham dự các cuộc mít tinh, bầu cử, đại hội liên hoan, các cuộc tiếp khách trong nước và ngoài nước; các cuộc đi thăm các nước, các ngành, các địa phương, các đơn vị tiên tiến, thăm gia đình các giới trong dịp Tết cổ truyền, v.v..
- Những sự kiện có ý nghĩa trong đời sống riêng: Ví dụ bữa cơm với bà Thanh, thư gửi họ Nguyễn Sinh về việc ông Khiêm tạ thế, sự kiện về thăm quê, những lần đi chữa bệnh, đi thăm danh lam, thắng cảnh, v.v..
Tóm lại, đối với cuộc đời của một vị lãnh tụ vĩ đại như Bác Hồ, chúng tôi không đặt vấn đề phân biệt sự kiện lịch sử và sự kiện bình thường. Có những sự kiện nhỏ nhưng ý nghĩa lớn, đem lại cho người đọc một nhận thức đầy đủ về lãnh tụ, vừa như một vĩ nhân, vừa như một người bình thường. Các soạn giả sẽ không đưa vào biên niên những sự kiện được coi là gián tiếp (như việc nước ngoài tặng huân chương, việc lấy tên Người đặt cho các giải thưởng, các quảng trường, đường phố, con tàu,...) và những sự kiện chưa được các nguồn tài liệu chính xác khẳng định.
Trong các nguồn tài liệu, sau khối tác phẩm và văn kiện, khối hồi ký cách mạng và các sách chuyên khảo có liên quan đến tiểu sử Bác Hồ là một nguồn tham khảo quan trọng. Trong việc sử dụng hồi ký, chúng tôi đặc biệt coi trọng hồi ký của các đồng chí lãnh đạo là học trò, người cộng sự gần gũi của Bác Hồ, nhất là những hồi ký được xuất bản khi Người còn sống. Giá trị các hồi ký vốn khác nhau và giữa các hồi ký còn có chỗ chưa khớp với nhau do các tác giả nhầm lẫn hoặc có thêm thắt một số chi tiết nào đó. Chúng tôi cố gắng tránh dựa hẳn vào một hồi ký riêng biệt mà phải qua đối chiếu, so sánh nhiều hồi ký với nhau để khôi phục lại những chi tiết, sự kiện còn thiếu trong biên niên tiểu sử của Bác Hồ.
Các sách chuyên khảo có giá trị khoa học của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, trong đó các tác giả đã chỉ ra được các nguồn xuất xứ ở các kho lưu trữ nước ngoài mà chúng tôi chưa có điều kiện tiếp xúc, chúng tôi cũng khai thác và sử dụng ở mức độ cần thiết, có chú thích để chờ tra cứu thêm.
Đối với tài liệu, báo cáo của mật thám - chỉ điểm về hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc ở trong nước và nước ngoài, sau khi phê phán và tước bỏ sự xuyên tạc ý nghĩa của sự kiện được nhìn nhận theo quan điểm của chúng, chúng tôi cũng khai thác và sử dụng có cân nhắc những chi tiết khách quan được ghi lại trong đó như thời gian, địa điểm diễn ra hành động, những con người và những sự việc có liên quan tới sự kiện được nói đến trong những báo cáo ấy.
Dựng lại được nội dung xác thực, khách quan của các sự kiện lịch sử là một quá trình. Nhưng đưa hay không đưa sự kiện nào vào biên niên tiểu sử, ngoài tính khách quan, tính lịch sử, còn phải tuân theo nguyên tắc tính đảng của sử học mácxít, nghĩa là còn phải tính đến những nhiệm vụ hiện nay của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội của nước ta, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc... Mỗi sự kiện có nhiều tầng ý nghĩa, ngoài mối quan tâm về lịch sử còn phải quan tâm đến ý nghĩa của nó đối với thời đại hiện nay. Do đó, bạn đọc có thể hiểu vì sao còn có những sự kiện chưa được đưa vào biên niên trong lần xuất bản này.
Về phương pháp trình bày, thể hiện, biên niên tiểu sử có những quy tắc riêng buộc phải tuân theo để đảm bảo tính nhất quán của thể loại. Trên nét lớn, mỗi sự kiện có thể được trình bày theo các công đoạn sau đây:
- Thời gian: năm, tháng, ngày, có thể đến giờ, nếu không biết giờ thì ghi: buổi sáng, trưa, chiều, tối, đêm. Có sự kiện diễn ra một ngày, một buổi, một giờ. Có sự kiện lớn diễn ra nhiều ngày (Đại hội Đảng, các Hội nghị Trung ương, v.v.) thì ghi ngày mở đầu và ngày kết thúc. Trong một đại hội nhiều ngày, Bác Hồ có nhiều lần phát biểu, lần nào vào ngày nào, giờ nào đều được trình bày riêng.
- Địa điểm: được ghi theo địa danh lúc xảy ra sự kiện.
- Nội dung sự kiện: thông tin ngắn gọn, chính xác, đầy đủ về nội dung sự kiện, việc làm, cách làm, nhân vật, đối tượng tiếp xúc, câu nói tiêu biểu phản ánh quan điểm, tư tưởng, đạo đức, phong cách... của Bác Hồ. Trong một số trường hợp, chúng tôi đã dẫn lại những câu, những chữ hay nhất của lãnh tụ để người đọc được tiếp xúc trực tiếp với tư tưởng của Người, cá biệt cũng có khi thêm cả nhận xét, đánh giá của người đương thời đã tham gia, chứng kiến sự kiện (là bạn hữu hay đối phương) hoặc nêu lên ý kiến của chính Bác Hồ khi còn sống có dịp nhắc lại sự kiện ấy.
- Các nguồn xuất xứ của sự kiện: chỉ rõ lấy từ đâu, văn kiện, tác phẩm, báo chí, tác giả, nhà xuất bản, nơi xuất bản, năm xuất bản, trang bao nhiêu, để giúp bạn đọc có thể trực tiếp tra cứu khi cần thiết.
Về cách thể hiện các danh từ riêng (tên người, tên đất, tên các tổ chức văn hoá - xã hội...) ở Việt Nam và Trung Quốc, chúng tôi dựa theo các quy ước thông dụng trên sách báo hiện nay. Về tên riêng nước ngoài thuộc các ngữ hệ Ấn - Âu, chúng tôi phiên âm theo gốc của nước đó và để nguyên tự dạng trong ngoặc (ví dụ: hãng Sácgiơ Rêuyni (Chargeurs Réunis), thành phố Brúclin (Brooklyn)) và chỉ ghi một lần nếu tên đó còn xuất hiện trong các sự kiện sau. Đối với các cơ quan ngôn luận, thông tấn, báo chí, theo xu hướng chung của thế giới hiện nay, chúng tôi để nguyên văn, in nghiêng, không dịch, ví dụ: Báo L'Humanité, Inprekorr. Đối với các danh từ riêng gốc Nga thì chuyển từ chữ cái Nga sang chữ cái Latinh, ví dụ: Hãng thông tấn ROXTA, Tạp chí Ogoniok, v.v..
Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử là một công trình lớn, nhiều tập, tổng số tập phụ thuộc vào số lượng tư liệu, sự kiện đã được sưu tầm và xác minh. Khác với tiểu sử khoa học được phân chia theo giai đoạn, biên niên tiểu sử - như tên gọi của nó - ghi chép sự việc theo năm tháng, nên chia tập, có chiếu cố đến các mốc lịch sử lớn, nhưng chủ yếu chia theo số lượng các sự kiện, nhằm đảm bảo cho độ dày của mỗi tập không quá chênh lệch nhau.
Mấy năm qua, Viện Hồ Chí Minh đã sưu tầm và xác minh được khoảng một vạn sự kiện về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thời niên thiếu đến lúc qua đời. Trong công việc này chúng tôi đã nhận được sự cộng tác và giúp đỡ của Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, Cục Lưu trữ Nhà nước (cơ sở I và II), Cục Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Bảo tàng Cách mạng; của nhiều cơ quan, thư viện, học viện, bảo tàng; của các vị nhân sĩ, trí thức, cán bộ lão thành cách mạng, kiều bào nước ta ở nước ngoài; của Cục Lưu trữ Viện Mác - Lênin trực thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô trước đây và nhiều cơ quan hữu quan khác ở Hà Nội và các địa phương.
Nhân dịp bộ sách lần lượt được ra mắt bạn đọc, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với mọi sự giúp đỡ to lớn nói trên. Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các vị học giả, giáo sư, cán bộ khoa học, đã nhiệt tình cộng tác với chúng tôi từ bước đầu xây dựng đề cương công trình, hội thảo phương pháp biên soạn, đến đọc, góp ý kiến hoàn chỉnh bản thảo.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng tiến hành biên soạn theo những bước đi thận trọng, nhưng việc viết biên niên của lãnh tụ vô sản theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin ở nước ta còn là vấn đề mới và khó, do trình độ có hạn, nhất là chưa có điều kiện khảo sát tận nơi những sự kiện, những tư liệu gốc còn lưu trữ ở các nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc, chưa được tiếp xúc với các sổ tay, bản thảo, biên bản các cuộc họp Trung ương và Bộ Chính trị... mà Bác Hồ có tham dự và phát biểu, v.v.. Vì vậy, chắc chắn công trình không tránh khỏi còn những khiếm khuyết chưa khắc phục ngay được.
Chúng tôi thành thật mong mỏi bạn đọc xa gần chỉ bảo cho những điều bổ ích sau lần xuất bản thứ hai này.
Hà Nội, ngày 6 tháng 1 năm 2006
VIỆN HỒ CHÍ MINH
Tháng 5, ngày 19
Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời niên thiếu tên là Nguyễn Sinh Cung, ra đời tại quê mẹ là làng Hoàng Trù (thường gọi là làng Trùa), xã Chung Cự 1), tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
Nguyễn Sinh Cung chào đời vào lúc thực dân Pháp đã đặt ách cai trị lên toàn cõi Việt Nam. Phong trào khởi nghĩa chống Pháp theo hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi tuy bị đàn áp nhưng thực dân Pháp vẫn không dập tắt được tiếng súng kháng chiến của nghĩa quân Phan Đình Phùng ở Nghệ - Tĩnh và Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế… Ngay ở vùng Nghệ - Tĩnh, nhiều sĩ phu yêu nước vẫn đang ngày đêm lo nghĩ về con đường cứu dân cứu nước thoát khỏi vòng nô lệ.
Thân phụ của Người là Nguyễn Sinh Sắc, sinh năm 1862 2) quê ở làng Kim Liên (thường gọi là làng Sen) cùng thuộc xã Chung Cự, cách Hoàng Trù 2km (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
Ông Sắc vốn xuất thân từ gia đình nông dân, mồ côi cha mẹ sớm, từ nhỏ đã chịu khó làm lụng và ham học. Vì vậy ông được cụ Hoàng Đường ở làng Hoàng Trù xin họ Nguyễn Sinh đem về nuôi. Ông vừa lao động vừa tiếp tục học tập. Khi trưởng thành, ông thành hôn với người con gái đầu của cụ. Cho đến năm 1890, ông Sắc chưa thi cử và đỗ đạt gì.
Thân mẫu của Người là Hoàng Thị Loan, sinh năm 1868. Bà là một phụ nữ cần mẫn, đảm đang, đôn hậu, sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải, hết lòng thương yêu và chăm lo cho chồng con ăn học.
Lúc này ông Sắc, bà Loan đã có ba người con.
Nguyễn Sinh Cung là con thứ ba trong gia đình.
Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh, còn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên, sinh năm 1884 3).
Anh của Người là Nguyễn Sinh Khiêm, còn có tên là Nguyễn Tất Đạt, sinh năm 1888 4).
Gia đình Nguyễn Sinh Cung sống trong một căn nhà nhỏ ba gian lợp tranh, trên đất vườn của ông bà ngoại tại làng Hoàng Trù.
- Gia phả họ Nguyễn Sinh ở làng Kim Liên. Tài liệu lưu tại Khu di tích Kim Liên - Nghệ An.
- Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.10.
- Biên bản Hội thảo về thời niên thiếu của Bác Hồ tại Nghệ An năm 1970. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bài viết Xã Nam Liên và làng Kim Liên, quê hương của Hồ Chủ tịch. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số tháng 5-1965, tr.7 - 8.
TỪ NĂM 1890 ĐẾN NĂM 1895
Nguyễn Sinh Cung sống ở làng Hoàng Trù trong tình thương yêu và chăm sóc của bố mẹ và ông bà ngoại.
Ông ngoại là Hoàng Đường, thuộc dòng dõi Nho học, mở trường dạy chữ Hán ngay tại nhà cho một số trẻ em trong làng.
Bà ngoại là Nguyễn Thị Kép, cũng là con một gia đình có truyền thống Nho học, làm ruộng để nuôi gia đình.
Nguyễn Sinh Cung nhỏ tuổi nhất trong nhà nên được mọi người trong gia đình yêu thương và chăm sóc nhiều hơn.
Là một thiếu nhi thông minh, Nguyễn Sinh Cung thích nghe chuyện và hay hỏi những điều mới lạ. Điều gì đã biết thì Nguyễn Sinh Cung nhớ rất lâu, đặc biệt là những chuyện cổ tích, những câu hát phường vải mà bà ngoại và mẹ thường kể.
- Biên bản Hội thảo về thời niên thiếu của Bác Hồ tại Nghệ An, năm 1970. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ - Tĩnh: Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.15-16.
Tháng 5, ngày 22, năm 1893
Nguyễn Sinh Cung chịu tang ông ngoại, mất ngày 7 tháng 4 năm Quý Tỵ (22-5-1893).
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ - Tĩnh: Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.15.
Khoảng tháng 6, năm 1894
Nguyễn Sinh Cung đón nhận tin vui: cha đậu cử nhân, khoa thi Giáp Ngọ năm Thành Thái thứ 6 tại trường thi Nghệ An 5).
- Quốc triều Hương khoa lục, Long cương tàng bản, xuất bản năm Thành Thái thứ 11 - Kỷ Dậu (1899).
- Tư liệu của Khu di tích Kim Liên - Nghệ An.
Khoảng gần cuối năm 1895
Sau khi đậu cử nhân (1894), ông Nguyễn Sinh Sắc vào kinh đô Huế dự thi Hội, nhưng không đỗ.
Ông xin vào học trường Quốc Tử Giám để chuẩn bị thi Hội kỳ sau. Được tiếp nhận, ông về quê đưa vợ và hai con trai cùng vào Huế; gửi con gái là Nguyễn Thị Thanh ở lại nhờ mẹ vợ nuôi.
Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha mẹ vào Huế. Thời kỳ này từ Nghệ An vào Huế chưa có đường xe lửa và ôtô. Mọi người đều đi bộ, trẻ con thường được ngồi trong quang gánh, vất vả nhiều ngày dọc đường mới tới được kinh đô Huế.
Tới Huế, lúc đầu gia đình Nguyễn Sinh Cung phải ở nhờ những người quen, sau ở tạm trong một gian của trại lính gần Viện đô sát.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ - Tĩnh: Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.19-20.
- Tư liệu của Chi nhánh Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên - Huế.
NĂM 1898
Gần cuối năm
Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha về làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, cách thành phố Huế khoảng 7km. Theo lời mời của ông Nguyễn Sĩ Độ, ông Nguyễn Sinh Sắc về đây dạy chữ Hán cho một số học sinh trong làng.
Ông Nguyễn Sinh Sắc và hai con ở trong nhà người em ông Nguyễn Sĩ Độ là Nguyễn Sĩ Khuyến (lúc này ông Khuyến chưa lập gia đình, nhà bỏ không. Ngôi nhà này hiện nay đã được công nhận là di tích).
Nguyễn Sinh Cung bắt đầu học chữ Hán từ đây. Với trí nhớ tốt, các bài học Nguyễn Sinh Cung chỉ đọc ba, bốn lần là thuộc 6).
- Tư liệu của Khu di tích Kim Liên - Nghệ An.
- Tư liệu của Chi nhánh Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên - Huế.
- Hồi ức của ông Nguyễn Sĩ Tích (cháu ông Nguyễn Sĩ Độ).
- Tư liệu của Đoàn Khảo sát di tích Hồ Chí Minh năm 1975.
NĂM 1900
Gần cuối năm
Nguyễn Sinh Cung vẫn ở Huế với mẹ trong thời gian ông Nguyễn Sinh Sắc đi làm giám thị kỳ thi Hương tại Thanh Hoá, đưa Nguyễn Sinh Khiêm đi cùng.
Cuối năm bà Hoàng Thị Loan sinh người con thứ tư, vì ông Sắc đi vắng, bà lại thiếu sữa phải cho con đi bú nhờ nên bà con gọi đùa là Xin, nhưng Xin quá yếu, đã mất sau một thời gian rất ngắn.
- Tư liệu của Chi nhánh Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên - Huế.
NĂM 1901
Tháng 2, ngày 10
Nguyễn Sinh Cung chịu tang lớn trong tuổi thiếu niên: bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu lâm bệnh qua đời tại Huế (theo âm lịch là ngày 22 tháng 12 năm Canh Tý) 7). Bà đã được những người láng giềng thân thiết lo việc mai táng, vì lúc này ông Nguyễn Sinh Sắc sau khi coi thi ở Thanh Hoá đã trở về Kim Liên và đang ở quê nhà.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ - Tĩnh: Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.24.
- Công văn mật số 711 của Chánh sở điều tra trung ương và Tổng mật vụ. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Sau tháng 2
Sau khi mẹ mất, Nguyễn Sinh Cung được cha đưa về Nghệ An, gửi bà ngoại chăm sóc.
Tại quê, Nguyễn Sinh Cung học chữ Hán với thầy Hoàng Phan Quỳnh, lớp học mở tại xóm Vang, làng Hữu Biệt, cách Hoàng Trù 3km (nay thuộc xã Nam Giang, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ - Tĩnh: Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.25.
- Theo Hồi ức của cụ Trần Thị Huy, năm 1963. Tư liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồi ký của đồng chí Võ Thúc Đồng - nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ - Tĩnh.
Tháng 5
Nguyễn Sinh Cung đón nhận tin vui: thân phụ đậu Phó bảng khoa thi Hội Tân Sửu, năm Thành Thái thứ 13 8).
- Quốc triều khoa bảng lục, Long cương tàng bản, xuất bản năm Thành Thái thứ 18 – Bính Ngọ (1906).
- Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.10.
Khoảng tháng 9
Nguyễn Sinh Cung cùng gia đình chuyển về sống ở quê nội là làng Kim Liên (làng Sen).
Theo tục lệ hồi ấy, ông Nguyễn Sinh Sắc được làng Kim Liên đón về và được làng cấp đất công, xuất quỹ công làm một ngôi nhà để mừng ông (ngôi nhà và mảnh vườn đó từ năm 1957 được phục chế và trở thành Khu di tích Kim Liên).
Về nhà mới, ông Sắc thường răn dạy các con ông: “Vật dĩ quan gia vi ngô phong dạng” (nghĩa là đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình) 9).
Tuy đã đỗ đạt nhưng ông Nguyễn Sinh Sắc và gia đình vẫn sống thanh bạch, đạm bạc.
Cũng nhân chuyện về sống ở quê nội, ông Nguyễn Sinh Sắc làm lễ “vào làng” cho hai con trai, với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).
- Tư liệu của Khu di tích Kim Liên - Nghệ An.
- Lời khai của bà Nguyễn Thị Thanh với mật thám Pháp ngày 7-5-1920. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Sau tháng 9
Nguyễn Tất Thành được phụ thân gửi học chữ Hán với thầy Vương Thúc Quý ở trong làng Kim Liên. Thầy Vương Thúc Quý là người con độc nhất của tú tài Vương Thúc Mậu, lãnh tụ Cần Vương của huyện Nam Đàn, người đã hy sinh trong cuộc càn quét của giặc Pháp tại Kim Liên. Mang nặng nợ nước thù nhà, thầy Quý tuy đỗ cử nhân nhưng không ra làm quan mà ở nhà mở trường dạy học và cùng các sĩ phu yêu nước trong vùng âm mưu chống Pháp. Nhà thầy Quý là nơi các sĩ phu yêu nước thường lui tới, trong đó có các ông Phan Bội Châu, Đặng Thái Thân… Những hôm nhà có khách, Nguyễn Tất Thành thường được thầy Quý lưu lại giúp đun nước, pha trà… Nhờ đó Nguyễn Tất Thành được nghe nhiều chuyện qua các buổi luận bàn thời cuộc của các sĩ phu yêu nước.
- Tư liệu hồi ký. Tài liệu lưu tại Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ An.
KHOẢNG NĂM 1901 - 1902
Nguyễn Tất Thành bước đầu tiếp thu tư tưởng yêu nước của các bậc cha chú thông qua mối quan hệ giữa cha với các sĩ phu trong vùng. Trong tác phẩm Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu kể lại rằng: Nguyễn Tất Thành thường nghe Cụ ngâm hai câu thơ và sau này anh vẫn nhắc lại:
"Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương".
Nghĩa là:
"Mỗi bữa (ăn) không quên ghi sử sách
Lập thân hèn nhất ấy (là) văn chương".
Nguyễn Tất Thành còn tìm đọc những cuốn sách mà các bậc cha chú thường nhắc tới và được phụ thân dẫn đi thăm các di tích lịch sử và các danh lam thắng cảnh trong vùng. Ngoài việc học tập, Nguyễn Tất Thành thường cùng bạn bè chơi các trò chơi của tuổi thiếu niên như đánh khăng, đánh trận giả, câu cá, bẫy chim, đánh vật… hoặc rủ nhau thăm các thắng cảnh, các di tích văn hoá lịch sử trong vùng như Núi Chung, Đền Thánh Cả, Chùa Đạt, Đền Độc Lôi... Nơi Nguyễn Tất Thành thường lui tới nhiều nhất là lò rèn ông Điền và giếng Cốc ở gần nhà.
Có lần Nguyễn Tất Thành làm chung cùng các bạn trong làng một cái diều sáo. Làm xong đem thả, diều không lên. Sửa mấy cũng không được, các bạn nản chí bàn phá đi làm lại cái khác. Nguyễn Tất Thành không nghe theo các bạn và tiếp tục sửa chữa. Đến khi diều tung gió bay cao, các bạn hỏi về cách sửa chữa, Nguyễn Tất Thành chỉ vẽ cho các bạn và bảo: “Cứ kiên trì chịu khó là được”.
Một lần khác, cùng các bạn câu cá ở cái ao gần nhà bà ngoại ở làng Trùa. Khi một bạn giật mạnh cần câu, lưỡi câu sắc nhọn, mắc vào tai Nguyễn Tất Thành, máu ra nhiều các bạn rất lo sợ. Nhưng Nguyễn Tất Thành nén chịu đau, bình tĩnh rút lưỡi câu ra, nhờ các bạn lấy “lá niệt” rửa sạch, đặt vào chỗ vết thương để cầm máu, và dặn các bạn đừng nói cho bà ngoại biết kẻo bà lo. Vết thương này sau thành sẹo, để dấu ấn ở tai Nguyễn Tất Thành.
- Phan Bội Châu niên biểu, Nxb. Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1955, tr.30.
- Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.10.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ -Tĩnh: Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.26, 30.
- Tư liệu của Khu di tích Kim Liên - Nghệ An.
NĂM 1903
Mùa xuân
Nguyễn Tất Thành theo cha đến ở xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và tiếp tục học chữ Hán. Thời gian này, ông Nguyễn Sinh Sắc dạy chữ Hán tại nhà ông Nguyễn Thế Văn.
Xã Võ Liệt là một xã có truyền thống yêu nước. Đó là quê hương của Phan Đà, người thanh niên mới 17 tuổi đã đứng ra chiêu tập nghĩa binh, tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi. Đó cũng là quê hương của Trần Tấn, người khởi xướng cuộc khởi nghĩa năm Giáp Tuất (1874) của văn thân Nghệ - Tĩnh.
Trong thời gian theo cha đến học ở Võ Liệt, Nguyễn Tất Thành lại có dịp nghe chuyện thời cuộc của các sĩ phu đến đàm đạo với cha mình.
- Tư liệu của Khu di tích Kim Liên - Nghệ An.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ -Tĩnh: Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.41 - 42.
________________________________
1) Xã Chung Cự vốn có truyền thống nho học từ lâu đời. Theo Đăng khoa lục, từ đời Lê Dương Hoà (1635) đến năm 1919 là khoá thi Hương, thi Hội cuối cùng, qua 96 khoa thi, toàn xã Chung Cự đã có 193 người đậu, tính từ hiệu sinh và tú tài trở lên. Là vùng đất có truyền thống yêu nước. Khi vua Hàm Nghi chạy ra Sơn Phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần Vương, ở Chung Cự có ông Vương Thúc Mậu lập đội nghĩa binh đóng ở núi Chung (gọi là Chung Nghĩa Binh) để chống Pháp. Dân Chung Cự và các xã lân cận theo ông rất đông. Đội Chung Nghĩa Binh đã nhiều phen làm cho giặc Pháp và quan lại Nam Triều phải lao đao.
2) Về năm sinh của ông Nguyễn Sinh Sắc, trước đây có sách ghi là năm 1863 nhưng các văn bản của triều Nguyễn bổ nhiệm ông, cũng như danh sách trúng tuyển kỳ thi Hội năm Thành Thái thứ 13 đều ghi ông sinh năm Nhâm Tuất (1862).
Qua nhiều nguồn hồi ký cho biết: ông Nguyễn Sinh Sắc lên 3 tuổi (tuổi âm lịch) thì bố là Nguyễn Sinh Vượng mất (7-1864). Từ đó chúng tôi cho rằng ông Sắc sinh năm 1862.
3) Chị và anh của Nguyễn Sinh Cung đều là những người yêu nước và có tham gia phong trào yêu nước. Bà Nguyễn Thị Thanh đã từng nuôi giấu các thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp, bí mật vận động tiếp tế lương thực cho nghĩa quân và tham gia Duy Tân hội. Năm 1918 bị thực dân Pháp bắt, đày đi Quảng Ngãi, sau đó đưa về quản thúc ở Huế.
4)Ông Nguyễn Sinh Khiêm đã từng tham gia biểu tình chống thuế ở Thừa Thiên, sau về quê tham gia phong trào Duy Tân. Năm 1914, Nguyễn Sinh Khiêm bị thực dân Pháp bắt, đày đi Nha Trang, rồi đưa về quản thúc ở thôn Phú Lễ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên.
5) Trong danh sách khoa thi Hương Giáp Ngọ, năm Thành Thái thứ 6 có ghi Nguyễn Sinh Sắc.
6) Theo lời kể của người nhà ông Nguyễn Sĩ Khuyến, có một hôm ông Nguyễn Sinh Sắc đi vắng, Nguyễn Sinh Cung cất sách đi chơi. Bạn bè khuyên Cung vào học bài thì Nguyễn Sinh Cung đã đọc thuộc lòng một mạch bảy trang sách cho các bạn nghe.
7) Theo lời khai của bà Nguyễn Thị Thanh (5-1920) với Sở mật thám thì bà Hoàng Thị Loan mất ở Huế ngày 19 tháng Chạp năm Thành Thái thứ 12 (2-1901).
8) Sách Quốc triều khoa bảng lục viết về kỳ thi này có những điều đáng chú ý như sau:
Có 4 bài đạt 6 điểm ở môn thi thứ ba (tam trường) của các ông Lê Ngải, Nguyễn Đình Hiến, Hoàng Đại Bỉnh và Nguyễn Sinh Huy. Ông Nguyễn Sinh Huy được Hội đồng Bộ phúc tra “quảng thủ” (lấy nới rộng).
Kỳ thi này có 9 người trúng “đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân” và 13 người trúng “phó bảng”.
Ông Nguyễn Sinh Huy xếp thứ 11 trong số 13 vị phó bảng và được ghi như sau: “Nguyễn Sinh Huy, trước mang tên Sắc, Nghệ An – Nam Đàn – Kim Liên. Sinh năm Nhâm Tuất, tuổi 40. Đậu cử nhân năm Giáp Ngọ. Được đỗ "lấy rộng thêm”. Tài liệu này nói rõ ông sinh năm 1862.
9) Qua hồi ký của nhiều người, ông Nguyễn Sinh Sắc đã lấy vôi viết các chữ Hán đó lên xà nhà.